Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI

Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành”, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).


Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.

Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. “Họ khám phá ra Maria". Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.

Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là “theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ.

Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria. Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.

Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.

Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể” trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.

Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:

Người là Đức Kitô và là Chúa!”. Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.

Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.

Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu
Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?

Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình “trước khi Người được thụ thai trong lòng”.

Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!

Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

LỜI TIÊN BÁO THỨ 3 - BÍ MẬT FATIMA

LỜI TIÊN BÁO THỨ 3 - BÍ MẬT FATIMA
Điều chắc chắn là Giáo Hội Công Giáo lúc bấy giờ có hứa sẽ chỉ mạc khải BÍ MẬT THỨ 3 này sau khi những biến cố đã xảy ra, ít nhất là những biến cố được đề cập sau đây.

1- Sau Đức Thánh Cha PIÔ VI, sẽ có 12 vị Giáo Hoàng hoàn tất được triều đại của mình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là vị thứ 12.

2- Vị tiền nhiệm của ngài (vị thứ 11) có một triều đại rất ngắn : Đó là Đức Giáo Hoàng Phaolô I đã băng hà sau 1 tháng được bầu lên Giáo Hoàng.
3- Vị Giáo Hoàng thứ 12 có một triều đại dài : Đó là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trị vì 27 năm, từ năm 1978 đến năm 2005. Đó là vị Giáo Hoàng dài thứ ba trong lịch sử Giáo Hội hoàn vũ.

4- Vị kế tiếp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II theo lời tiên báo sẽ gây nên một cuộc cách mạng trong chính Giáo Hội Công Giáo (???)

GIÁO HỘI CHO PHÉP MẠC KHẢI BÍ MẬT THỨ 3 CỦA FATIMA
Giáo Hội đã cho phép mạc khải cho các tín hửu một phần bí mật FATIMA. Đức Mẹ Maria đã hiện ra với 3 đứa trẻ vào năm 1917 và cuộc hiện ra này đã được xác định bởi những biểu hiện phi thường mà hằng chục ngàn người đã chứng kiến. Một trong ba đứa trẻ còn sống cho đến những ngày gần đây là LUCIA (Soeur LUCIE) nữ tu thuộc Dòng KÍN ở Âu Châu. Lúc đầu chị Lucia đã loan báo thông điệp này cho Đức Giáo Hoàng Piô XII. Khi đọc xong, Đức Thánh Cha đã run, và quyết giữ bí mật, không phổ biến. Đến Đức Giáo Gioan 23 cũng đã đọc và Ngài cũng không phổ biến.Các Ngài đã làm như thế vì các Ngài biết rằng nều phổ biến những bí mật thì sẽ gây hoãng loạn, tuyệt vọng trên thế giới.

*** ĐÂY LÀ PHẦN KHÁC CỦA MẠC KHẢI, KHÔNG PHẢI ĐỂ GÂY SỢ HÃI NHƯNG CHÚNG TA PHẢI BIẾT ĐỂ CHUẨN BỊ
Đức Mẹ đã nói với chị LUCIA :”- Con xem, Mẹ đã chỉ cho thế giới biết những gì đã xảy ra từ năm 1950 đến năm 2001, nhưng người ta vẫn không quyết tâm thực thi 10 điều răn mà Cha chúng ta đã ban.
SATAN dẫn dắt thế giới, gieo rắc hận thù và bất hòa khắp nơi. Người ta đã làm nên những vũ khí giết người và trong vòng vài phút có thể hủy diệt toàn bộ thế giới. Một nửa nhân loại sẽ bị hủy diệt một cách khủng khiếp, chiến tranh sẽ bắt đầu. Sẽ có những chống đối giữa các dòng Tu với Rôma. Thiên Chúa cho tất cả các hiện tượng tự nhiên như : khói - mưa đá - băng giá - nước - lửa - lụt lội - động đất – sóng thần - thời tiết khắc nghiệt - những thiên tai khũng khiếp - những mùa Đông cực lạnh dần dần kết thúc địa cầu. Những hiện tượng này sẽ xảy đến chung quanh năm 2000 trở đi. Những người nào không muốn tin thì đây là cơ hội để tin.

Mẹ Chí Thánh của Nhân loại đang nói với họ đây :
Hãy thực thi bác ái với người Anh Em đang cần sự giúp đở. Những kẻ không yêu thương nhau như chính Con của Mẹ đã yêu thương chúng. Một số kẻ này có thể sống sót, nhưng chúng lại muốn chết. Hằng triệu người này sẽ mất mạng trong vòng vài giây. Loại hình phạt trước mắt chúng ta không thể tưởng tượng được và chúng sẽ thấy và không ngờ đến. Chúa chúng ta sẽ sẽ phạt một cách khắt khe những kẻ không tin Người., những kẻ chối bỏ Người, những kẻ không dành thì giờ cho Người.

Mẹ kêu gọi tất cả những ai đến cùng Con của Mẹ, Thiên Chúa là Đấng cứu giúp thế giới, Nhưng tất cả những gì không làm chứng cho lòng trung thành và ngay thẳng sẽ bị hủy diệt một cách khũng khiếp.

Cha Augustin sống tại Fatima đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho phép đến thăm chị Lucia, lúc đó đã là Nữ Tu một Dòng Kín, không được ra ngoài và tiếp khách. Cha Augustin đã nói là chị Lucia đã tiếp Cha với một trái tim tan nát. Chị Lucia nói :” - Cha ơi ! Đức Mẹ rất buồn vì hầu như không ai quan tâm đến lời tiên báo của Mẹ vào năm 1917. Những người tốt phải đi vào con đường hẹp. Những người xấu sẽ đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong. Xin Cha tin con. Sự trừng phạt sẽ sớm đến. Có nhiều linh hồn sẽ hư mất và nhiều quốc gia sẽ biến khỏi mặt đất.
Nhưng dầu vậy, nếu loài người biết suy nghĩ và cầu nguyện để trở lại làm việc lành thì thế giới có thể được cứu vãn. Còn ngược lại, họ cứ ở trong tình trạng bệnh tật thì thế giới sẽ hư mất và tiêu diệt vĩnh viễn.”-

***

Đã đến lúc phải truyền đạt thông điệp của Đức Mẹ cho người quen biết – cho bạn hửu – cho bạn của họ - và cho tất cả thế giới biết.

Hãy bắt đầu cầu nguyện, nâng tâm hồn lên, hãy ăn năn sám hối, hy sinh và hãm mình. Chúng ta đang đến rất gần thời gian cuối cùng và tai họa cũng đang đi tới gần. Chính vì thế, có rất nhiều kẻ đang ở xa sẽ trở về trong vòng tay của Giáo Hội Chúa Kitô. Những quốc gia như Anh – Nga – Trung quốc…v..v…tất cả những người Chân tu, người Tin Lành, Đạo sĩ, người Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái Giáo…v..v…sẽ trở lại và tin vào Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô và trong Mẹ Chí Thánh của Ngài.

Nhưng chúng ta sẽ phải chờ đợi điều gì ? Ở khắp mọi nơi người ta đang nói đến hòa bình – yên ổn…nhưng hình phạt sẽ đến !!




*** Một Nhân Vật rất cao cấp sẽ bị ám sát và điều đó sẽ xảy ra chiến tranh.
*** Một đạo binh hùng mạnh sẽ đi ngang khắp Âu châu và chiến tranh hạt nhân sẽ bắt đầu
Trận chiến tranh này sẽ hủy diệt tất cả. Bóng tối sẽ bao trùm trái đất trong vòng 72 tiếng đồng hồ. (3 ngày). Gần 1/3 nhân loại còn sống sót sau 72 giờ đen tối và kinh hoàng này và những ai bắt đầu sống trong giai đoạn mới sẽ là người tốt.

Vào 1 đêm rất lạnh, 10 phút trước nửa đêm (giờ khuya) một trận động đất lớn sẽ làm rung chuyển trái đất trong vòng 8 tiếng đồng hồ. Đó là dấu hiệu thứ 3 của Thiên Chúa, Đấng cai quản trái đất.

Những người tốt lành, những kẻ loan báo Thông điệp, Lời tiên tri của Đức Trinh Nữ Maria ở Fatima không được run - không được sợ hãi - và phải làm gì ?
- Hãy qùy xuống và xin lỗi Chúa. Đừng ra khỏi nhà và không để ai lạ vào nhà. Bởi vì chỉ những người tốt lành mới không bị sự dữ thống trị và sẽ được sống sót sau cơn đại họa này. Để cho các con có thể chuẩn bị
và còn sống sót như những người con của Mẹ, Mẹ sẽ
cho các con biết những dấu hiệu sau đây :

- Đêm đó sẽ là đêm cực kỳ lạnh.
- Có những cơn gió rất mạnh thổi đến.
- Sẽ có nhiều lo âu và trong chốc lát trận động đất
lớn bắt đầu, toàn trái đất rung chuyển.
Trong nhà con, hãy đóng hết các cửa ra vào và cửa sổ.
Không nói chuyện với bất cứ người nào chưa vào trong nhà.
Không được nhìn ra ngoài, đừng tò mò, bởi vì đó là cơn giận dữ của Đức Chúa.
Hãy đốt những cây nến đã làm phép, bởi vì trong 3 ngày đó không có ánh sáng nào khác.
Sự rung chuyển của trái đất mạnh đến nỗi trục của trái đất sẽ di chuyển từ 20 đến 30 độ, sau đó sẽ trở về vị trí cũ.

Bấy giờ sự tối tăm hoàn toàn bao trùm cả trái đất. Tất cả thần dữ sẽ được thả tự do. Chúng sẽ gây nhiều điều dữ cho các linh hồn không muốn nghe Thông điệp này.

Các linh hồn Kitô giáo được Chúa chúc phúc. Nhớ phải thắp đèn cầy đã được làm phép. Hãy chuẩn bị một bàn thờ có Thánh Giá để liên lạc với Thiên Chúa và Con của Người và để van nài lòng thương xót vô biên của Người. Tất cả đều tối đen.

Bấy giờ, một cây Thánh Giá huyền diệu sẽ xuất hiện trên nền trời, nhắc lại giá trị châu báu mà Con Thiên Chúa đã trả vì yêu thương và cứu rỗi chúng ta.

Trong nhà con, vật duy nhất có thể đem ánh sáng là những cây nến đã được làm phép, mà môt khi đã được thắp lên rồi thì không có gì có thể dập tắt được cho tới khi 3 ngày tối tăm chấm dứt.

Tất cả phải có Nước Thánh trong nhà để rẩy lên các cửa sổ và cửa cái. Chúa sẽ che chở mọi sở hửu của con là những kẻ Ngài đã chọn.

Hãy quỳ xuống trước Thánh Giá đầy quyền uy của Đức Kytô và cầu nguyện sốt sắng. Hãy nói :”- Lạy Chúa, xin tha thứ tội lỗi chúng con. Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin dẫn đến bên Chúa tất cả các linh hồn, nhất là những linh hồn nào cần đến lòng thương xót của Chúa hơn. Ôi ! Mẹ Maria dịu hiền, xin cầu cho chúng con. Chúng con yêu Mẹ, xin cứu thế giới chúng con.

Những người công chính không được run sợ về bất cứ điều
gì vào Ngày Của Thiên Chúa hành xử.
Trong thời gian con còn được cho phép, người làm thinh sẽ chịu trách nhiệm về những linh hồn bị hư mất do thiếu thông tin. Khi trận động đất ngừng, những người không tin vào Thiên Chúa sẽ chết một cách khủng khiếp. Gió sẽ mang hơi độc gieo rắc khắp nơi, không cho mặt trời lộ diện. Có thể chúng con sẽ sống sót sau cuộc đại họa này. Đừng quên rằng cơn giận dữ của Thiên Chúa là Thánh, và khi đã bắt đầu, các con không được nhìn ra ngoài vì bất cứ lý do nào. Vì Thiên Chúa không muốn con cái của Người thấy khi Người trừng phạt những kẻ tội lỗi cố chấp.

Các con phải hiểu rằng Thiên Chúa sẽ cho phép tất cả những điều này xảy ra. Đức Thánh Cha và các Giám Mục hãy chờ một Thông điệp khác nói về sự thống hối và cầu nguyện. Hãy luôn nhớ rằng Lời Chúa của Thiên Chúa không phải là điều dọa nạt, mà là Tin Mừng.

Xin vui lòng chép lại tin này và gởi đến tất cả những người bạn quen biết để mọi người có cơ hội thống hối và được sống sót sau cơn đại họa..

Chúng ta không biết những người nhận được Thông điệp này sẽ tin hay không tin ?! Nhưng hãy nghĩ rằng nếu Thiên Chúa cho phép thì sự việc sẽ xảy ra, bởi vì Người muốn điều đó. Cho dù người đó theo đạo nào cũng không thoát khỏi.
Nếu bạn không tin vào Thông điệp này hãy gởi cho những người khác,, điều đó không gây cho bạn tốn kém gì, và như thế những kẻ tin sẽ có cơ hội để tự quyết định cho bản thân mình.

Bạn hãy nhớ rằng tất cả mọi điều có thể tránh khỏi nếu mọi người thực hành đúng đắn 10 điều răn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đó là 10 điều răn rất đơn giản, nếu chúng ta có thể thực hành được, thì sẽ nhận được Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa.

Chị Lucia đã qua đời ngày 11 tháng 2 năm 2005. Từ thập niên 20 (tức là từ năm 1920 trở về sau này) người ta đã tiên đoán rằng những lời tiên tri này sẽ được thực hiện sau khi chị Lucia qua đời.-